Văn hóa Đông Sơn - Chiến tranh và Hòa bình (kỳ 32): Những lưỡi giáo lao Đông Sơn trổ lỗ ở cánh

09/10/2025 07:53 GMT+7 | Văn hoá

Tôi bước vào nghề khảo cổ năm 1968, khi cùng các sinh viên khoa Sử, Đại học Tổng hợp năm thứ nhất theo thầy Hà Văn Tấn, Hán Văn Khẩn lên Xóm Rền (Gia Thanh, Phù Ninh, Phú Thọ) khai quật khảo cổ học.

Xem chuyên đề Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất TẠI ĐÂY

1. Cũng năm 1968, xuất hiện một sự kiện lớn trong lịch sử khảo cổ học Việt Nam, cũng như trong ngành nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói chung. Đó là sự ra đời của Viện Khảo cổ học, với Viện trưởng đầu tiên là Giáo sư - Tiến sĩ Phạm Huy Thông, trực thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội, nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Ngành khảo cổ học khi đó, với nòng cốt là Viện Khảo cổ học, khởi đầu sự nghiệp bằng chuỗi đột phá vào lịch sử thời Hùng Vương dựng nước với bốn hội nghị chuyên đề hàng năm, từ 1968 đến 1971. Và những ngọn giáo đồng thuộc văn hóa Đông Sơn đã được tập hợp, nghiên cứu như những bằng chứng sinh động của bộ vũ khí thời dựng nước.

Văn hóa Đông Sơn - Chiến tranh và Hòa bình (kỳ 32): Những lưỡi giáo lao Đông Sơn trổ lỗ ở cánh - Ảnh 1.

Bộ sưu tập giáo - lao trổ lỗ thuộc Bảo tàng Tiền sử Phạm Huy Thông (Mường Động, Phú Thọ)

Tôi phải dẫn dắt câu chuyện hơi dài dòng một chút, bởi ngay từ khi còn rất trẻ, gần 60 năm trước, tôi cũng như các đàn anh, đàn chị khảo cổ lớn tuổi khi tập trung khui đào vũ khí thời Hùng Vương đã để ý đến những lưỡi giáo đồng Đông Sơn có đục lỗ trên hai cánh. Sự độc đáo của việc tạo lỗ thủng trên cánh giáo chẳng những khơi dậy nỗi tò mò kèm theo các giả thuyết về chức năng của những lỗ thủng đó, mà còn bởi "tính vùng" khá rõ nét của chúng - chủ yếu ở vùng xứ Thanh, Cửu Chân xưa, nơi hợp lưu giữa hai dòng chính Mã - Chu.

Ngay từ những sưu tập đồ đồng Thanh Hóa đầu tiên do Pajot gom lượm hồi đầu những năm 1920 đến các cuộc khai đào của Olov Janse giữa những năm 1930, và do khảo cổ học Việt Nam khai quật trong những năm 1960 - 1980 tại vùng này, loại giáo - lao có trổ lỗ ở cánh đã thường xuyên xuất hiện.

Văn hóa Đông Sơn - Chiến tranh và Hòa bình (kỳ 32): Những lưỡi giáo lao Đông Sơn trổ lỗ ở cánh - Ảnh 2.

Loại giáo có hai cánh đúc sẵn bốn lỗ, có thể để nhồi bùi nhùi tẩm thuốc độc khi chiến đấu

Một trong những nhà khảo cổ học lưu tâm gom nhặt tư liệu này khi đó là anh Trịnh Cao Tưởng (Phó Giáo sư, Tiến sĩ khảo cổ học, đã qua đời). Anh là một trong số sinh viên tốt nghiệp khảo cổ học năm 1968 và thuộc những thành viên đầu tiên của Viện Khảo cổ học Việt Nam. Tham gia nghiên cứu đề tài Hùng Vương dựng nước khi đó, anh được phân công trong nhóm nghiên cứu về vũ khí thời Hùng Vương cùng Giáo sư Lê Văn Lan.

Trong các tập, túi tư liệu mà anh để lại cho tôi sau khi dứt lòng với các nghiên cứu về thời Hùng Vương để chuyên tâm đảm trách khảo cổ học thời phong kiến giai đoạn sau, có hàng trăm bản vẽ với chú thích bằng mực bút máy nhỏ, đẹp, nghiêng chạy như kiến bò - rất đặc trưng Trịnh Cao Tưởng.

Hai ngọn giáo có trổ lỗ ở cánh, kích thước lớn, thuộc hai kiểu khác nhau (hình trái) và đặc tả bốn lỗ đúc sẵn trên bản cánh lưỡi giáo (hình phải). Sưu tập Bảo tàng Phạm Huy Thông

Chỉ đến những năm gần đây, tôi mới thực hiện được hoài bão xưa của anh: đi gom nhặt mọi tài liệu về vũ khí Đông Sơn đã và chưa công bố trong các bảo tàng, sưu tập tư nhân trong và ngoài nước. Bài viết này như một lời tri ân đến anh - người đã cảm nhận rất sớm về sự độc đáo và tính năng của những lưỡi giáo đồng Đông Sơn có lỗ trên hai cánh.

"Các lỗ thủng trên cánh hẳn để gài, buộc vật dẫn lửa hoặc tẩm thuốc độc, gây hỏa hoạn và tăng sát thương với đối phương" - TS Nguyễn Việt.

2. Như đã nói ở các bài trước, giáo - lao Đông Sơn có nhiều kích cỡ khác nhau. Nhưng ở bất kể loại kích cỡ nào cũng tìm thấy những tiêu bản có lỗ thủng trên hai cánh. Thống kê sơ bộ cho thấy chúng chiếm khoảng 20% các mũi giáo đồng kiểu Đông Sơn điển hình vùng sông Mã, sông Chu. Người xưa tạo lỗ ở hai cánh giáo chủ yếu trên loại hình giáo hình thoi và giáo hình lá mía.

Loại giáo - lao đục lỗ hình thoi này lan truyền nhiều ở các vùng thấp của đồng bằng Bắc Bộ, trong các mộ thân cây khoét rỗng Đông Sơn, và xa nhất về phía Nam hiện thấy trong một sưu tập ở Tây Nguyên mà tôi được nhà sưu tầm Lâm Dũ Xênh (Châu Ổ, Bình Sơn, Quảng Ngãi (cũ) gửi tặng. Trong cuộc khai quật ở Lai Nghi (Quảng Nam) cũng từng thấy một giáo đồng hình lá mía có trổ lỗ như vậy. Sau này, khi nghiên cứu sưu tập Đông Sơn ở Gò Quê (Quảng Ngãi) và An Khê (Gia Lai), tôi cũng bắt gặp những giáo - lao hình thoi có trổ lỗ tương tự, như những ấn chỉ ghi nhận cuộc rút lui xa về phía Nam của nghĩa quân Hai Bà Trưng.

Văn hóa Đông Sơn - Chiến tranh và Hòa bình (kỳ 32): Những lưỡi giáo lao Đông Sơn trổ lỗ ở cánh - Ảnh 5.

Một số ngọn lao, mũi tên đồng Đông Sơn có lỗ, kích thước nhỏ, thuộc loại thực chiến “một đi không trở lại” (sưu tập Bảo tàng Phạm Huy Thông)

Các lỗ trên hai cánh giáo, lao thường thấy là một lỗ ở mỗi bên cánh. Đôi khi cũng thấy hai khe thủng, và rất hiếm thấy ba khe thủng. Có lẽ do tính chất thực chiến, không lưu lại sau khi sử dụng, và nhất là do các lỗ chiếm chỗ rộng đẹp nhất trên mỗi cánh, nên hầu như chưa thấy bất kỳ trang trí nào trên các lưỡi giáo - lao loại này. Các lỗ đều được tạo ra khi chế khuôn đúc.

Nhìn vào sưu tập mũi lao có trổ lỗ vừa phát hiện năm ngoái ở vùng trũng phía Nam Hà Nội, dễ dàng nhận thấy chúng có kích thước nhỏ (dài 4 - 12 cm), không được trang trí, rất gần với những mũi tên hay mũi lao. Sưu tập giáo - lao thuộc Bảo tàng Phạm Huy Thông còn có những mũi giáo - lao Đông Sơn lớn hơn, trong đó lớn nhất phải kể đến lưỡi giáo trong sưu tập Lâm Dũ Xênh hiến tặng. Giáo dài 38 cm, rộng bản cánh 6 cm. Mỗi bên cánh có hai rãnh thủng song song, dài 3 cm, rộng 2,5 mm.

Những lưỡi giáo - lao nhỏ cho thấy chúng thuộc vũ khí thực chiến - "một đi không trở lại". Các lỗ thủng trên cánh hẳn để gài, buộc vật dẫn lửa hoặc tẩm thuốc độc, gây hỏa hoạn và tăng sát thương với đối phương. Những khe thủng trên giáo lớn có thể để cài buộc tua, chuông và thậm chí tẩm độc, nhưng sẽ được chủ nhân gìn giữ bên mình, chứ không phải "một đi không trở lại" như những mũi lao, tên kia.

Đây là một đặc trưng rất độc đáo của vũ khí Đông Sơn, đáng được ghi nhận như một sáng tạo mang tính địa phương cao trong bộ vũ khí Đông Sơn vùng sông Mã, sông Chu.

(Còn tiếp)

TS Nguyễn Việt

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm