09/11/2025 20:46 GMT+7 | Văn hoá
Tại các vùng đệm của đại ngàn Pù Huống (Nghệ An) rộng gần 46.500ha, có hơn 100 bản làng, trong đó 90% dân cư là người Thái. Trải qua nhiều thế hệ, cộng đồng dân tộc Thái đã trao truyền tri thức bản địa để thích ứng với điều kiện và môi trường tự nhiên.
Một nét đặc trưng trong phong tục và tập quán sinh hoạt của người Thái là cách bảo quản lúa, nông sản bằng “lẩu khầu” (kho đựng lúa) sau mỗi vụ thu hoạch. Đây cũng là minh chứng cho sự đa dạng của nguồn tri thức dân gian giữa đại ngàn.
Bản làng tất bật vào mùa gặt
Gần 2 tuần qua, tranh thủ thời tiết khô ráo, nắng ấm, thuận lợi cho việc gặt hái, phơi lúa, rơm rạ, người dân ở xã Nga My, Bình Chuẩn trong đại ngàn Pù Huống đã tất bật thu hoạch lúa. Trên con đường men theo lưng núi Pù Hiêng ngược thượng nguồn suối Nậm Ngân, Nậm Kho vào các bản Xốp Kho, Na Kho, Na Ngân (xã Nga My) dễ dàng bắt gặp cảnh người dân thu hoạch lúa trên các thửa ruộng bậc thang. Lúa vào thời điểm chín rộ đã điểm sắc vàng và nổi bật giữa nền xanh của đại ngàn.
Ông Vi Văn Đào, bản Xốp Kho, xã Nga My thu hoạch lúa cùng con rể và con gái trên thửa ruộng của gia đình. Ông nói, vào tháng 4, đồng bào Thái ở các bản giữa đại ngàn bắt đầu cày ải, phơi đất và lấy nước vào ruộng từ chân khe núi chảy ra bằng hệ thống ống dẫn, sang tháng 5 thì gieo cấy. Mùa thu hoạch lúa nương rơi vào giữa tháng 10. Đây là thời điểm người dân ở các bản làng tất bật nhất. Làng bản cũng rộn ràng hơn bởi tiếng máy tuốt lúa vang vọng khắp núi rừng. Công việc thu hoạch lúa kéo dài nhiều ngày. Khi sương đêm còn chưa tan, mây mờ còn vương lưng chừng núi, dân bản đã ra đồng thu hoạch lúa và kết thúc vào lúc chiều muộn. Có nhiều người dân ở lại lán nương qua đêm để trông coi, bảo vệ lúa trước các loại chim, sóc, chuột...

Lễ cúng Thổ Công Thổ Địa bày tỏ lòng thành kính và mời thần linh cai quản đất đai đến chung vui, cầu mong sự bình an và may mắn của cộng đồng dân tộc Thái tại Hà Nội. Ảnh: Phan Phương - TTXVN
Do ảnh hưởng bão số 10 xảy ra vào cuối tháng 9 vừa qua, nhiều ruộng lúa trong khe suối bị lũ quét, lũ ống nên ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, thu hoạch của nhiều hộ dân. May mắn là ruộng nương của gia đình ông Vi Văn Đào nằm ở vị trí cao nên vụ này thu hoạch tương đối tốt.
Suốt hơn 40km trên con đường đất lưng chừng núi vào các bản vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống có nhiều diện tích trồng lúa nước của dân bản nằm lọt thỏm giữa đại ngàn. Do khan hiếm về diện tích đất canh tác, nên những mặt bằng ven suối Nậm Ngân, Nậm Kho, các khe Hưng, Ngọn, Sung, Đền, Bống… hoặc các rông đất, vùng yên ngựa đều được người dân tận dụng để trồng lúa.
Do địa hình chia cắt bởi núi đồi, khe suối, giao thông đi lại khó khăn, ruộng nương lại xa bản nên các công đoạn thu hoạch lúa phải thực hiện thủ công. Người dân chỉ mang được những chiếc máy “vò” công suất nhỏ chạy bằng xăng ra ruộng. Để hạt lúa không văng xa trong quá trình vò, người dân dùng nhiều lá cọ rừng che chắn máy. Công đoạn phơi lúa, đóng lúa vào bao tải diễn ra ngay ở chân ruộng. Việc khuân vác, vận chuyển lúa vừa gặt xong từ ruộng đến địa điểm tuốt, vò đa phần dành cho đàn ông, thanh niên có sức khỏe.
Trong những ngày thu hoạch, người dân phụ giúp nhau, thắt chặt thêm tình đoàn kết cộng đồng. Lúa sau khi phơi khô sẽ được đóng vào bao tải và gùi chuyển về bản. Nếu ruộng nương ở xa thì phải chuyển lúa lên đường dân sinh rồi dùng xe máy chở về...
“Lẩu khầu” giữa đại ngàn
Những bao lúa mang về sẽ được cất giữ, bảo quản tại các “lẩu khầu” (nghĩa là kho đựng lúa) của từng gia đình. Ông Lữ Văn Uôn, Trưởng bản Na Kho, xã Nga My cho biết: Năm 1946, đồng bào dân tộc Thái đã ở đây và khẳng định vai trò chủ thể của vùng đất nơi thượng nguồn dòng Nậm Kho. Văn hóa sử dụng “lẩu khầu” xuất hiện từ khi lập bản. Lẩu khầu được lợp mái bằng cỏ gianh, lá cọ, các bộ phận khác chủ yếu bằng gỗ. Kết cấu lẩu khầu gồm 2 tầng, có lan can ở phía dựng cầu thang hoặc thân cây đục bậc để bước lên, xuống. Mặt sàn tầng 2 có hình vuông, chiều dài các cạnh từ 2,5-3m, chiều cao từ 3m trở lên.

Lúa sau khi được phơi khô sẽ được đồng bào Thái mang về bản cất giữ, bảo quản tại những kho dự trữ nằm tách biệt với ở để sử dụng dần. Ảnh: Xuân Tiến - TTXVN
Là nơi cất giữ, bảo quản nông sản (lúa, ngô, sắn, khoai) nên tầng 2 chỉ có một cánh cửa nhỏ đủ để một người ra vào. Toàn bộ tầng 2 được nâng đỡ bởi hệ thống thanh ngang và 4 trụ gỗ hộp hoặc thân cây già cao từ 1,5-2m. Để tăng độ bền vững cho các trụ đỡ của lẩu khầu, gia chủ còn bọc cột trụ bằng tấm kim loại mỏng. Trên các chân trụ chỗ tiếp xúc với tầng 2 được kê chắc chắn các tấm kim loại như mâm đồng, thau nhôm... Sau khi hoàn tất việc vận chuyển các bao thóc lên lẩu khầu, chủ nhà sẽ khóa cửa kho và tháo thang lên xuống để hạn chế việc tiếp cận.
Già làng Van Văn Hoàn, bản Na Kho cho biết, công năng của lẩu khầu như nhà sàn nhưng nhà sàn là nơi con người ở, còn lẩu khầu là nơi chứa lúa, ngô, khoai sắn. Hàng chục năm trước, đại ngàn vùng đất nơi khởi nguồn suối Nậm Kho này rất thâm u, có nhiều loài thú dữ. Các công trình dân sinh gắn liền với môi trường sống, phục vụ sinh hoạt của người dân đều tính đến việc phòng tránh muông thú tấn công, phá hoại. Thung lũng Na Kho có mặt bằng khá rộng để người dân canh tác lúa, ngô và được tắm mát bởi các dòng khe Phai, khe Kho, suối Nậm Kho. Nhưng vùng đất này cũng là khu vực các loài thú lớn tìm về kiếm thức ăn, uống nước. Vì vậy, lẩu khầu tồn tại đến ngày nay phải trải qua quá trình chắt lọc, tích lũy, trao truyền của nhiều thế hệ người Thái trong công cuộc chinh phục, chế ngự tự nhiên, phòng tránh muông thú, côn trùng giữa đại ngàn.
Già làng Van Văn Hoàn lý giải, tầng 2 của lẩu khầu khá cao, có khoảng trống với mặt đất để nông sản không bị nấm mốc, ẩm, mối mọt và tránh các loài thú lớn tiếp cận, phá hoại hoặc “cướp” nông sản. Khi mưa lớn tạo dòng chảy hoặc đất đá ở triền núi sạt lở xuống cũng không ảnh hưởng đến lẩu khầu. Việc bọc các cột trụ nâng và kê bằng thau đồng, mâm nhôm nhằm tăng độ chắc chắn, có độ trơn trượt, tạo chướng ngại vật, ngăn côn trùng, thú nhỏ như khỉ, sóc, chuột... leo lên tiếp cận kho chứa nông sản. Vị trí lẩu khầu thường nằm riêng biệt, cách nhà sàn hàng chục mét để khi có thú tấn tiếp cận kho nông sản, người dân vẫn có khoảng cách an toàn để quan sát, thực hiện các biện pháp xua đuổi.
Ông Lương Văn Ủn, Trưởng bản Na Ngân, xã Nga My chia sẻ, sinh sống giữa đại ngàn, tập quán sinh hoạt gắn với môi trường rừng, suối, núi nên lẩu khầu không thể tách rời trong cuộc sống, tâm thức của người Thái. Một lẩu khầu có sức chứa hàng tấn nông sản trở lên, thời gian sử dụng từ 5-7 năm, khi có bộ phận hỏng sẽ được gia chủ sửa chữa, thay thế. Có gia đình làm đến 2 lẩu khầu ở trên nương rẫy và ở bản. Những dịp có lễ cúng bản, lễ mừng cơm mới, người Thái cũng sắm lễ nhỏ để “tạ ơn” lẩu khầu...
Ông Bùi Hữu Sỹ, Trạm trưởng Trạm quản lý bảo vệ rừng Nga My (Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Pu Huống) cho biết: Trạm được giao quản lý vùng lõi khu bảo tồn có diện tích hơn 15.360ha với 16 tiểu khu thuộc xã Nga My. Đây là khu vực có nhiều diện tích rừng nguyên sinh chứa đựng hệ sinh thái đặc thù của dải Bắc Trường Sơn. Trong rừng có 6 bản làng người Thái định cư ở các vùng đệm. Những năm qua, nhờ những diện tích lúa bậc thang ven suối cho năng suất ổn định, đảm bảo được lương thực, đời sống người dân. Do đó, áp lực đến công tác quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học đối với Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống đã giảm rõ rệt.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất