01/08/2025 06:20 GMT+7 | Văn hoá
Việc nhìn lại 150 năm thay đổi của các văn bản Quốc ngữ Truyện Kiều, kể từ bản phiên âm đầu tiên do Trương Vĩnh Ký thực hiện và xuất bản năm 1875, là cơ sở quan trọng để hướng tới một văn bản Truyện Kiều chữ Quốc ngữ được trình bày thống nhất về mặt chính tả.
Đây không chỉ là nhu cầu học thuật, mà còn nhằm giúp bạn đọc ngày nay tiếp cận và hiểu rõ hơn giá trị tác phẩm.
Đó cũng là vấn đề trọng tâm được nêu ra tại tọa đàm khoa học Tìm kiếm phương án tối ưu cho việc trình bày văn bản Quốc ngữ Truyện Kiều diễn ra ít ngày trước tại Hà Nội. Tọa đàm do Hội Kiều học Việt Nam, Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền, Viện Nghiên cứu danh nhân phối hợp tổ chức hướng tới kỷ niệm 260 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du.
Nhiều hiện tượng không thống nhất
GS Trần Đình Sử cho biết, văn bản Truyện Kiều do Nguyễn Du viết và khắc in hoặc chép tay sau đó đều là các văn bản Hán Nôm, mà văn bản Hán Nôm thì đều không có viết hoa, viết thường, không có các loại dấu câu như trong văn bản chữ Quốc ngữ. Vì thế, khi phiên âm viết ra bằng chữ Quốc ngữ, ngoài việc phiên âm cho đúng âm, đọc chữ cho đúng chữ, phải thực hiện viết hoa các chữ cần viết hoa, đánh dấu câu ở những chỗ cần phải đánh theo yêu cầu của văn bản Quốc ngữ.
Tọa đàm “Tìm kiếm phương án tối ưu cho việc trình bày văn bản Quốc ngữ Truyện Kiều”
"Nhưng việc này lại phụ thuộc vào hiểu biết, quan niệm và nhận thức của người biên soạn, do vậy tạo thành các hiện tượng không thống nhất trong các văn bản Quốc ngữ Truyện Kiều suốt 150 năm qua, từ bản Trương Vĩnh Ký năm 1875 cho đến các bản in đầu thế kỷ 21" - GS Sử nhấn mạnh.
Dựa trên việc khảo cứu tài liệu, nhà nghiên cứu Trần Đình Tuấn (Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam) dẫn chứng: bản Kim Vân Kiều truyện của Trương Vĩnh Ký (1875) tuy không trực tiếp bàn luận về quan niệm cặp lục bát là một câu, một chỉnh thể không tách rời, nhưng cách trình bày văn bản cho thấy ông hiểu theo hướng này, cụ thể là không viết hoa đầu dòng câu bát và không đánh số câu.
Từ quan niệm này, theo khảo cứu của ông Tuấn, bản Trương Vĩnh Ký 1875 sử dụng dấu câu tương ứng với từng chức năng cụ thể: dấu phẩy để ngắt ý trong câu thơ và kết thúc câu lục, dấu chấm hỏi/chấm than để kết thúc câu lục hoặc câu bát; dấu hai chấm dùng trong câu để giải thích hoặc giới thiệu lời thoại; dấu chấm phẩy để ngắt ý trong câu ghép hoặc chuyển tiếp sang các cặp lục bát tiếp theo; dấu ngoặc kép dùng khi dẫn lời trực tiếp, thường đi sau dấu hai chấm.
Đến năm 1911, bản Kim Vân Kiều truyện của Trương Vĩnh Ký vẫn giữ nguyên quan niệm cặp thơ lục bát là một chỉnh thể. Dấu phẩy tiếp tục được dùng sau câu lục, và câu bát kết thúc bằng dấu chấm, dấu hỏi hoặc chấm than.
Tuy nhiên, bước sang bản Kim Vân Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh (1913), nguyên tắc viết hoa đầu dòng câu bát được áp dụng. Đây có thể coi là một quy định chính tả mới. Dấu phẩy vẫn được duy trì ở cuối câu lục nhằm gắn kết ý nghĩa với câu bát theo sau. Kể từ đó, hầu hết các văn bản Truyện Kiều Quốc ngữ đều giữ nguyên thói quen viết hoa đầu câu bát.
Sự thay đổi này làm nảy sinh vấn đề liên quan đến việc sử dụng dấu câu. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Tuấn, việc vừa viết hoa đầu câu bát vừa dùng dấu phẩy kết thúc câu lục và dấu chấm kết thúc câu bát đặt ra những bất cập.
Cụ thể, nếu quan niệm câu lục và câu bát là hai đơn vị độc lập tương đối, thì dấu phẩy sau câu lục và dấu chấm sau câu bát có thể trở nên không cần thiết. Ngược lại, nếu coi cặp lục bát là một chỉnh thể (như Trương Vĩnh Ký), thì việc viết hoa đầu câu bát lại thiếu hợp lý.
Bản in Kim Vân Kiều truyện của Trương Vĩnh Ký năm 1875
Đáng chú ý, ông Tuấn cho hay, vào khoảng năm 1942 - 1943, khi tái bản Kim Vân Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh, nhà in Alexandre de Rhodes đã bỏ dấu phẩy ở cuối câu lục và dấu chấm ở cuối câu bát. Khoảng thời gian này cũng xuất hiện xu hướng trình bày truyện thơ lục bát theo cách tương tự: Phổ thông bán nguyệt san số 156 Avril 1945 của nhà in Tân Dân, khi in Bích Câu kỳ ngộ dẫn giải của Nguyễn Đỗ Mục, cũng bỏ hoàn toàn dấu phẩy cuối câu 6 và dấu chấm cuối câu 8.
Nhìn lại tiến trình 150 năm cho thấy, ngoại trừ 2 bản Trương Vĩnh Ký (1875 và 1911), hầu hết các bản Truyện Kiều Quốc ngữ hiện nay đều viết hoa đầu dòng câu bát và sử dụng đầy đủ hệ thống dấu câu. Tuy nhiên, sự khác biệt về quan niệm văn bản (cặp lục bát là một chỉnh thể hay hai câu độc lập) vẫn dẫn đến những cách trình bày khác nhau, gây lúng túng trong việc chuẩn hóa chính tả và dấu câu.
Muôn vẻ dùng dấu câu
"Những câu như Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh hay Người quốc sắc, kẻ thiên tài rất cần dấu phẩy để thể hiện đúng dụng ý nghệ thuật" - nhà thơ Vương Trọng.
Đi sâu vào hiện tượng sử dụng dấu câu trong các văn bản Quốc ngữ Truyện Kiều, GS Trần Đình Sử cho rằng, việc sử dụng dấu phẩy sau chữ thứ 6 của câu 6 và dấu chấm sau chữ thứ 8 của câu 8 là theo quy tắc của câu thơ.
Theo ông, dấu phẩy chỉ chỗ ngừng ngắn, còn dấu chấm thể hiện cho ngừng dài hơn, theo quy tắc câu thơ là đơn vị của nhịp điệu. "Trường hợp không dùng dấu chấm, phẩy ở đây là sai. Tất nhiên, thơ là ngôn ngữ lệch chuẩn, nó có thể không viết hoa chữ đầu câu, cũng như không chấm phẩy gì hết. Nhưng đối với tác phẩm cổ điển như Truyện Kiều, thiết nghĩ không nên thể hiện lệch chuẩn ở đây" - GS Sử nhấn mạnh.
Chuyên gia này cũng nhấn mạnh vai trò của các loại dấu câu khác. Dấu hai chấm, ngoặc kép thể hiện lời nói của nhân vật. Chấm than sau câu cảm thán. Dấu hỏi sau câu hỏi, dù là câu hỏi tư từ. Dấu phẩy ngắt ý trong câu. Việc sử dụng các dấu câu này là cần thiết đối với văn bản Truyện Kiều chữ Quốc ngữ.
"Trong văn bản Nôm đã có những chữ đánh dấu lời thoại, ví dụ "Nàng rằng", "nàng mới rỉ tai", "Thưa rằng", "mới dẫn gần xa"… các trường hợp này đánh dấu ngoặc kép là được" - GS Sử phân tích - "Các dấu than, dấu hỏi sử dụng đúng chỗ. Nhưng khi nhân vật đang có ý nghĩ hiện ra như lời thoại thì vẫn dùng ngoặc kép được. Hoặc khi người kể chuyện chuyển thuật ý nghĩ, tâm trạng của nhân vật mà đánh dấu ngoặc kép thì không hợp lí, vì trong đó vừa có lời của nhân vật, vừa có lời của người kể chuyện".
Bản Kim Vân Kiều của Trương Vĩnh Ký in năm 1911
Như phân tích, GS Trần Đình Sử đề xuất yêu cầu: việc sử dụng hệ thống dấu câu trong Truyện Kiều Quốc ngữ phải vừa đúng chuẩn chính tả, vừa tôn trọng nhịp điệu nghệ thuật của tác phẩm. Ông cho biết, hiện nay một số bản in như bản của Vũ Văn Kính (1989) hầu như bỏ toàn bộ dấu câu, nhưng đa số các văn bản Quốc ngữ khác đã dùng tương đối đầy đủ và chính xác hơn.
Đưa ra quan điểm khác, nhà thơ Vương Trọng thẳng thắn: "Tôi không đồng ý với phần lớn cách sử dụng dấu phẩy trong Truyện Kiều xuất bản xưa nay". Ông cho rằng, thói quen đặt dấu phẩy ở cuối câu lục bắt nguồn từ bản Trương Vĩnh Ký (1875) và thực chất là thừa.
"Trong thể thơ lục bát, người đọc tự nhiên đã dừng lâu hơn dấu phẩy khi kết thúc câu lục theo nhịp tự nhiên của thể thơ, vậy thêm dấu phẩy là hoàn toàn vô ích" - ông dẫn chứng - "Câu Trăm năm trong cõi người ta dù không có dấu phẩy, người đọc vẫn dừng đúng nhịp".
Theo nhà thơ này, điều đáng nói là có những vị trí dấu phẩy thật sự cần thiết thì lại thường bị bỏ qua. Đó là những trường hợp xuất hiện tiểu đối, một đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Nguyễn Du.
"Tôi đã thống kê: Truyện Kiều có 308 cặp tiểu đối 2/2, 50 cặp tiểu đối 3/3 và 289 cặp tiểu đối 4/4. Với nhóm 3/3, nếu không có dấu phẩy, người đọc dễ đọc theo nhịp tự nhiên 2/2/2 của lục bát, làm mất sự nhấn mạnh. Những câu như Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh hay Người quốc sắc, kẻ thiên tài rất cần dấu phẩy để thể hiện đúng dụng ý nghệ thuật" - ông phân tích - "Đối với các tiểu đối nhóm 4/4, dấu phẩy cũng cần thiết để đánh dấu sự đối xứng của hai vế câu bát. Trong hầu hết các văn bản hiện nay, những dấu phẩy quan trọng này lại bị bỏ qua".
Từ phân tích này, nhà thơ Vương Trọng đưa ra đề xuất: nên bỏ dấu phẩy ở cuối câu lục và tiết chế dấu chấm ở cuối câu bát, chỉ đặt khi thật sự kết thúc một đoạn ý. Ngược lại, cần bắt buộc dùng dấu phẩy ở những chỗ có tiểu đối 3/3 hoặc 4/4 để người đọc ngắt nhịp đúng theo dụng ý của tác giả.
Phải tuân thủ quy tắc chính tả đương thời
Ở góc nhìn rộng hơn, PGS-TS Nguyễn Thanh Tùng (Đại học Sư phạm Hà Nội) cho rằng, lịch sử trình bày văn bản Truyện Kiều Quốc ngữ thực chất phản ánh những quy tắc chính tả của từng thời kỳ. "Ngay cả bản in của Trương Vĩnh Ký, chỉ trong 2 lần in thôi đã có 2 cách trình bày khác nhau. Điều đó cho thấy, khi quan niệm về chuẩn chính tả thay đổi thì cách trình bày văn bản cũng thay đổi theo" - ông dẫn chứng.
Bản Kim Vân Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh in năm 1913
Theo ông Tùng, việc phiên âm và trình bày Truyện Kiều chữ Quốc ngữ phải tuân theo những quy tắc chính tả đương thời, bởi đây là văn bản hướng đến độc giả phổ thông. Tuy nhiên, trong trường hợp của văn bản thơ, đặc biệt là thơ lục bát, có những đặc thù cần cân nhắc.
"Thường thì các quy tắc chính tả áp dụng chính xác hơn với văn bản văn xuôi. Với văn bản thơ, tập quán chung hiện nay là kết thúc dòng thơ thứ nhất dùng dấu phẩy, dòng thứ hai dùng dấu chấm, nhất là trong thơ lục bát. Các nhà thơ hiện đại có thể trình bày theo phong cách cá nhân, nhưng Truyện Kiều cần theo một chuẩn mực chung" - ông phân tích.
Nhà nghiên cứu này cho rằng, việc có hay không dấu chấm, dấu phẩy ở cuối câu lục bát không ảnh hưởng nhiều đến việc hiểu văn bản. Tuy nhiên, ở những vị trí dùng dấu phẩy để thể hiện tiểu đối hoặc ngắt nhịp theo đơn vị ý nghĩa thì lại rất quan trọng. Phẩy sai có thể dẫn đến hiểu sai, nên phải đặc biệt cân nhắc khi dùng dấu phẩy.
Mặt khác, từ thực tế nghiên cứu, nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tùng cũng chỉ ra một vấn đề cơ bản: văn bản Truyện Kiều gốc của Nguyễn Du hiện không còn, những bản lưu truyền đều đã qua nhiều lần chép lại, sửa đổi. Hơn nữa, văn bản ban đầu vốn là chữ Nôm, một hệ chữ viết không sử dụng dấu chấm, phẩy.
"Khi phiên âm sang chữ Quốc ngữ, việc thêm dấu câu là thao tác bắt buộc. Bởi việc phiên âm sang một hệ ngôn ngữ mới buộc phải theo một số quy ước của ngôn ngữ mới. Chữ Quốc ngữ phải có dấu câu. Nếu một văn bản hoàn toàn không có chấm, phẩy thì đọc thế nào được?" - ông nhấn mạnh.
Từ phân tích này, chuyên gia này đề xuất, trước hết, việc trình bày Truyện Kiều Quốc ngữ phải đặt trên nền tảng quy ước chính tả tiếng Việt hiện hành. Đây là chuẩn mực chung cần tôn trọng, bởi văn bản hướng đến đông đảo độc giả phổ thông. Thứ hai, đối với những trường hợp đặc thù, cần xây dựng một bản thể lệ trình bày riêng để giải thích cho người đọc.
"Nhóm biên soạn cần tham khảo ý kiến các nhà nghiên cứu, cũng như các văn bản pháp quy của Nhà nước về trình bày văn bản" - ông đề xuất - "Từ đó chắt lọc để hình thành một bản thể lệ nhất quán, rõ ràng. Khi đọc văn bản và đối chiếu với thể lệ, người đọc sẽ hiểu được ý đồ, quan niệm của nhóm biên soạn và dễ dàng chấp nhận".
PGS-TS Nguyễn Thanh Tùng cũng thừa nhận, rất khó có thể đạt tới một chuẩn thống nhất tuyệt đối. Tuy nhiên, việc xây dựng một bản thể lệ chung trong trình bày văn bản Truyện Kiều Quốc ngữ là cần thiết để tạo sự đồng thuận và hướng dẫn người đọc.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất