Danh nhân Lê Quý Đôn: "Ngôi sao" sáng trên "bầu trời" văn hóa Việt Nam

02/11/2025 08:19 GMT+7 | Văn hoá

Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm Ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn. 

Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn nhất của Việt Nam ở thế kỷ XVIII và là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Lê Quý Đôn - nhà bác học lớn 

Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 2/8/1726, mất ngày 11/6/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên). Lúc nhỏ tên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Ông là con cả của tiến sĩ Lê Phú Thứ (sau đổi thành Lê Trọng Thứ) - người từng làm đến chức Hình bộ Thượng thư. Mẹ ông là con gái một tiến sĩ từng trải qua nhiều chức quan.

Danh nhân Lê Quý Đôn: "ngôi sao" sáng trên "bầu trời" văn hóa Việt Nam - Ảnh 3.

Danh nhân văn hóa Lê Quý Ðôn. Nguồn: Báo Thanh niên

Từ nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là thần đồng ham học, thông minh, có trí nhớ siêu đẳng. Năm 2 tuổi, ông đã đọc được chữ "hữu" và "vô"; 5 tuổi đọc được nhiều bài trong Kinh Thi; năm 10 tuổi, ông học sử, mỗi ngày thuộc được 80 đến 90 chương và học Kinh Dịch về phần Cương hình và Đồ thuyết; năm 14 tuổi ông đã đọc hết Ngũ Kinh, Tứ Thư, Sử truyện và Chư tử. Đặc biệt, ông có thể làm 10 bài phú mà không phải nghĩ và không cần viết nháp.

Có rất nhiều giai thoại bộc lộ tư chất hơn người của Lê Quý Đôn. Trong số ấy, không thể không nhắc tới bài thơ nôm "Rắn đầu biếng học" mà ông ứng biến khi Quan Thượng đến thăm nhà. Quan Thượng thấy ông thông minh nên muốn ông phải ứng khẩu một bài thơ. Khi Lê Quý Ðôn xin đề bài thì Quan Thượng nói rằng: "Phụ thân cậu đã bảo cậu rắn đầu, rắn cổ, vậy cậu cứ lấy đó làm đề bài". Sau một thoáng suy ngẫm, Lê Quý Ðôn đã đọc bài thơ với ngụ ý tự trách mình nhưng đã khiến cho Quan Thượng phải thán phục và khen: "Quả là thần đồng". Bài thơ ấy đến nay vẫn lưu danh trong sử sách:

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,

Rắn đầu biếng học lẽ không tha.

Thẹn đèn, hổ lửa đau lòng mẹ,

Nay thét mai gầm rát cổ cha.

Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,

Lằn lưng cam chịu vết roi tra

Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,

Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.

Danh nhân Lê Quý Đôn: "ngôi sao" sáng trên "bầu trời" văn hóa Việt Nam - Ảnh 1.

Khu lưu niệm Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn tại Thái Bình (cũ), nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Vũ Quang – TTXVN

Năm 14 tuổi, Lê Quý Ðôn đã theo cha lên kinh đô Thăng Long theo học thầy là tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Nhờ trí tuệ uyên thâm mà 17 tuổi Lê Quý Đôn đi thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi ông đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn (do khoa thi này không lấy Trạng nguyên).

Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê-Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754); Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757); Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764); Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1767); Tán lý quân vụ (năm 1768); Thị phó đô ngự sử, Công bộ hữu thị lang (năm 1769); Bồi tụng  (năm 1773); Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776); Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783);  Công bộ thượng thư (năm 1784)...

Lê Quý Đôn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, có tài năng và kiến thức uyên bác. Cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn đã có nhiều sự kiện ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. Những năm 1756, 1772, ông được cử đi điều tra tình hình thống khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại… ở Sơn Nam, Lạng Sơn.

Danh nhân Lê Quý Đôn: "ngôi sao" sáng trên "bầu trời" văn hóa Việt Nam - Ảnh 2.

Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn tại xã Lê Quý Đôn (Hưng Yên). Ảnh: Thế Duyệt – TTXVN

Trong thời gian đi sứ Trung Quốc (1760-1762), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng, bàn luận với họ những vấn đề Sử học, Triết học... Học vấn sâu rộng của ông đã được các học giả rất khâm phục. Ông có dịp đọc nhiều sách, trong đó có sách của phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữhọc, thủy văn học...

Nhờ quá trình đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời nên kiến thức của Lê Quý Đôn rất phong phú. Sinh thời, nhà bác học Lê Quý Đôn được mệnh danh là "túi khôn của thời đại". Ông được người đời ca tụng: "Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn", có nghĩa là mọi người trong thiên hạ ai không hiểu việc gì, muốn hỏi thì gặp Bảng nhãn Lê Quý Đôn. Câu nói đó đã nói lên tầm vóc của nhà bác học thiên tài của Đại Việt thời phong kiến. Ham hiểu biết, thích sưu tầm lại có một trí nhớ siêu việt… đó chính là những yếu tố giúp ông trở thành danh nhân đất Việt. Ông đã có những cống hiến trên nhiều lĩnh vực, như: triết học, sử học, nông học, thiên văn học… Mỗi cống hiến của ông lại mang đến giá trị lịch sử, văn hóa, giáo dục cũng như nhân văn cho mọi thế hệ.

Di sản vô giá để lại cho hậu thế

Trong "Lịch triều hiến chương loại chí", sử gia Phan Huy Chú đã nhận xét: "Lê Quý Ðôn tư chất khác đời, thông minh hơn người... Bình sinh làm sách rất nhiều, khi bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi; mà nói đến điển cố thì đầy đủ, rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng ở trên đời".

Còn trong cuốn "Trí thức Việt Nam xưa và nay", tác giả Văn Tân viết: "Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn nhất của nước Việt Nam thời phong kiến. Suốt đời ông tỏ ra là một người đọc sách không biết mệt mỏi".

Với tài trí thông minh và kiến thức uyên bác, Lê Quý Đôn đã để lại cho hậu thế khoảng 40 bộ sách bao quát hầu hết các tri thức đương thời, như: lịch sử, địa lý, thi ca, nhiều tác phẩm khảo cứu, diễn nghĩa, chú giải, bàn giảng các kinh điển, cổ thư và nhiều tác phẩm thơ Nôm. Các tác phẩm nổi tiếng của ông được coi như bách khoa toàn thư ở nhiều lĩnh vực. Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu: Về văn học có bộ sưu tầm "Toàn Việt thi lục"; tập thơ "Quế đường thi tập" rất nổi tiếng". Về sử học có "Đại Việt thông sử", "Phủ biên tạp lục", "Kiến văn tạp lục", "Bắc sử thông lục". Về triết học có "Thư kinh diễn nghĩa", "Dịch kinh phu thuyết", "Xuân thu lược luận", "Quân thư Khảo biện". Về kinh tế và nông học có bộ "Vân đài loại ngữ" rất đồ sộ…

Danh nhân Lê Quý Đôn: "ngôi sao" sáng trên "bầu trời" văn hóa Việt Nam - Ảnh 4.

Đoàn đại biểu Việt Nam tại Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng UNESCO. Ảnh: TTXVN phát

Trong số những bộ sách đồ sộ Lê Quý Ðôn để lại cho hậu thế, "Vân đài loại ngữ", được coi là bộ bách khoa từ điển của Việt Nam. Tác phẩm gồm 9 quyển, tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội... thể hiện rõ tư duy hệ thống và bề sâu học thuật của ông. Điểm nổi bật của "Vân Đài loại ngữ" không chỉ nằm ở khối lượng tư liệu phong phú mà còn ở phương pháp biên soạn khoa học, lý luận chặt chẽ, giúp độc giả hiểu được cách người xưa nhìn nhận và vận dụng tri thức. Lê Quý Đôn cũng thể hiện tư duy phản biện và khả năng tổng hợp kiến thức từ nhiều nguồn cổ điển từ kinh điển Nho giáo cho đến sử ký, thiên văn, nông học, y học dân gian. "Vân đài loại ngữ" là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng đối với các nhà nghiên cứu Hán Nôm, văn hóa học và lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Danh nhân Lê Quý Đôn: "ngôi sao" sáng trên "bầu trời" văn hóa Việt Nam - Ảnh 5.

Đoàn đại biểu Việt Nam tại Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng UNESCO. Ảnh: TTXVN phát

Còn lĩnh vực sử học, phải nhắc đến bộ sách "Đại Việt thông sử", còn gọi "Lê triều thông sử", với 30 quyển ghi chép về hơn 100 năm của triều nhà Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có. Ngoài giá trị to lớn về kho tư liệu, "Đại Việt thông sử" còn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về khoa học lịch sử phương pháp nghiên cứu sử học khoa học đặc thù của Lê Quý Ðôn. Khi viết "Ðại Việt thông sử", ông đã sớm tổng kết: "Phép làm sử là phải nhặt đủ, không bỏ sót để cho người ta sau khi mở sách ra xem rõ được manh mối, biết được đầu đuôi, tuy không tận mắt thấy tai nghe mà rõ ràng như chính mình được thấy".

Về văn học, tiêu biểu là "Toàn Việt thi lục", gồm 6 quyển là công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Ðôn, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509-1516). Ông cũng để lại nhiều công trình tiêu biểu, như "Hoàng Việt văn hải", "Quế Đường thi văn tập". Ngoài ra, ông còn quan tâm đến ngôn ngữ học, dân tộc học, nhân học, địa lý học...

Có thể nói, công tích và sự nghiệp khoa học của nhà bác học Lê Quý Đôn đã và đang là những di sản vô giá truyền lại cho các thế hệ tiếp nối, được nhà nước và nhân dân suy tôn qua nhiều hình thức lưu danh và tưởng niệm. Cả nước hiện có tới 40 ngôi trường mang tên danh nhân Lê Quý Đôn.

Di sản của Lê Quý Đôn không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi quốc gia mà còn vươn xa tầm quốc tế. Các tác phẩm quý giá của ông phần lớn viết bằng chữ Hán đã trở thành tài liệu tham khảo trực tiếp cho nhiều nghiên cứu trong khu vực Đông Á. Những công trình này, cùng với các bài báo khoa học, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác, góp phần lan tỏa giá trị văn hóa và trước tác của Lê Quý Đôn ra toàn cầu.

Danh nhân Lê Quý Đôn: "ngôi sao" sáng trên "bầu trời" văn hóa Việt Nam - Ảnh 6.

Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng UNESCO thông qua nghị quyết vinh danh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn. Ảnh: TTXVN phát

Danh nhân Lê Quý Đôn: "ngôi sao" sáng trên "bầu trời" văn hóa Việt Nam - Ảnh 7.

Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng UNESCO thông qua nghị quyết vinh danh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn. Ảnh: TTXVN phát

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Kim, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, thành viên Ủy ban UNESCO thế giới nhận định: các tác phẩm của Lê Quý Đôn không chỉ là những công trình học thuật xuất sắc của Việt Nam mà còn phản ánh tầm nhìn khai sáng, bao quát toàn bộ những tri thức cao nhất của thời đại. Từ văn hóa, giáo dục, triết học đến xã hội, lịch sử, tất cả đều được ông luận bàn sâu sắc. Đặc biệt, những công trình của ông như "Kiến văn tiểu lục", "Phủ biên tạp lục", "Vân đài loại ngữ", "Đại Việt thông sử"... không chỉ có giá trị về mặt học thuật mà còn là di sản văn hóa dân tộc được bạn bè quốc tế công nhận.

GS.TS Shimizu Masaaki - Đại học Osaka (Nhật Bản) trong tham luận của mình đã so sánh nhà bác học Lê Quý Đôn với nhà ngôn ngữ nổi tiếng Nhật Bản - nhà Quốc học Motoori Norinaga (1730-1801): "Lê Quý Đôn là người Việt Nam đầu tiên coi ngôn ngữ, văn tự là đối tượng để suy nghĩ, nhận thức. Ông là người đề xuất phương pháp nghiên cứu tiếng Việt đầu tiên trong lịch sử khoa học Việt Nam".

PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương - Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia cho rằng, trong lịch sử 300 năm qua, tài năng, tầm vóc của danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn được khẳng định và nhận sự quan tâm của các nhà khoa học trong và ngoài nước, cho thấy sự cần thiết giới thiệu và lan tỏa rộng rãi hơn nữa di sản Lê Quý Đôn đến với thế giới.

Việc UNESCO vinh danh danh nhân Lê Quý Đôn không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng, mà còn là sự công nhận xứng đáng đối với những đóng góp của văn hóa, trí tuệ Việt Nam vào kho tàng tri thức nhân loại.

Diệp Ninh/ TTXVN

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm