05/11/2025 18:00 GMT+7 | Văn hoá
Người Việt Nam biết ăn ngô từ bao giờ?
Xem chuyên đề Chữ và nghĩa TẠI ĐÂY
Theo truyền thuyết, từ năm 1597, khi danh nhân Phùng Khắc Khoan đi sứ bên Tàu đem về giống ngô, từ đó, người Việt Nam đã biết ăn ngô. Trong khi đó, theo Vân đài loại ngữ của nhà bác học Lê Quý Đôn, thì phải gần 100 năm sau: "Hồi đầu thời Khang Hy (1662 - 1723), Trần Thế Vinh, người huyện Tiên Phong (Sơn Tây) sang sứ nhà Thanh mới lấy được giống ngô đem về nước. Suốt cả đất Sơn Tây, nhờ có ngô thay cho cơm gạo. Ngô trồng ở Nghệ An, phần nhiều là giống ngô trắng (ngô nếp); ngô trồng ở Lạng Sơn có đủ năm sắc".
Còn Việt Nam tự điển (1931) cho biết ở ngoài Bắc, còn gọi ngô là "lúa ngô". Dấu vết ấy, có thể tìm thấy qua thành ngữ "Ông chú lúa ngô, bà cô đậu nành".
"Được mùa chớ phụ ngô, khoai
Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng"

Giống ngô trắng (ngô nếp). Ảnh: Internet
Câu ca dao này, cho thấy ngô, khoai rất quen thuộc trong tâm thức người Việt Nam. Phùng Khắc Khoan và Trần Thế Vinh đã tiên phong đem giống ngô về nước, quả là một ơn đức của ngàn đời.
Có điều lạ rằng, nếu ngoài Bắc gọi ngô, thì Trung và Nam lại gọi là bắp. Tục ngữ có những câu liên quan đến bắp như "Nổ như bắp rang", là tiếng nổ giòn… Có câu ca dao nổi tiếng của người phương Nam: "Bắp non mà nướng lửa lò/ Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm". Thế nhưng tại sao lại là bắp? Theo Đại Nam quấc âm tự vị (1895): "Loại lục cốc, có hột, có trái bằng bắp tay mà dài" và dẫn chứng nhiều tên gọi như bắp tẻ: Thứ bắp đỏ hột ít dẻo; bắp nếp: Thứ bắp trắng hột mà dẻo như nếp; bắp thai thai: Thứ bắp thấp cây cũng gọi là bắp 2 tháng rưỡi; bắp vang: Thứ bắp hột đỏ bầm; bắp đá: Thứ bắp nếp lớn hột, ít dẻo…
Cách giải thích về tên gọi bắp của tự vị trên cũng tương tự Việt Nam tự điển (1931): "Loại lục cốc có hột, có trái bằng bắp tay mà dài".
Ta hoàn toàn có thể kết luận "bắp" là cách gọi của người miền Trung, miền Nam dành cho ngô. Hợp lý quá chứ còn gì nữa?
Cũng có giả thuyết cho rằng cách gọi này có thể do vay mượn của người Tày - Nùng. Từ điển Tày - Nùng - Việt (NXB Từ điển bách khoa, 2006) của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chí cho biết: "Băp: ngô. Chay băp: giồng ngô. Băp tông: ngô chiêm" (trang 24); còn theo Từ điển Tày - Việt (NXB Đại học Thái Nguyên, 2011) do Lương Bèn chủ biên: "Bắp: ngô. Bưa ngô: bột ngô. Sluôn bắp: Vườn ngô" (trang 24).
Từ thông tin này, ta có thể suy luận trên hành trình mở cõi, lưu dân từ Đàng Ngoài đi vào Đàng Trong đã mang theo và sử dụng tên gọi về một loại cây trái đã đi vào câu đố dân gian: "Phất cờ cắm ở trên đầu/ Chưa già mà đã có râu thật nhiều/ Già rồi râu héo, cờ xiêu/ Từng hàng răng trắng sắp đều bên nhau". Như vậy, ngay từ thuở giống cây này du nhập vào nước ta, cùng lúc đã có 2 tên gọi: Ngô và bắp. Khi người phương Nam gọi bắp là sử dụng cách gọi đã có, chứ không phải sau này mới đặt ra. Tuy nhiên, thật khó lý giải tại sao họ lại không dùng từ "ngô", cũng như người miền Bắc không gọi là "bắp"?
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất