13/08/2025 19:27 GMT+7 | Văn hoá
"Ngửa lưng cho thế gian nhờ/ Chẳng thương thì chớ lại ngờ bất trung", là đố về chữ gì? Rõ ràng đó là chữ "phản", phản thùng, phản phé, phản phúc, phản nghịch… Vậy, "phản ngựa" thì sao?
Xem chuyên đề Chữ và nghĩa TẠI ĐÂY
Chẳng hạn trong truyện ngắn Sáng trăng suông của Hồ Dzếnh có câu: "Tôi ngồi lọt vào giữa đám đông người nhà quây quần trên chiếc phản ngựa đặt hỏa lò, vì hôm đó là sáng mùng 1 Tết". Nhà văn trong Nam như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam lại viết "bộ ngựa", tức là "Một bộ ván gồm các tấm ván dày, bào láng mặt, bằng danh mộc ghép lại với nhau, kê lên 2 thanh gỗ dày chắc, gọi là "chơn ngựa" dùng để nằm ngồi" - theo "Phương ngữ Nam bộ" (2015) của Bùi Thanh Kiên.
Với người miền Nam, phát âm "phảng/ phản" đều na ná, khó phân biệt. Vì thế mới có chuyện này: Ngày nọ anh chàng người miền Trung về miền Tây Nam bộ thăm bạn, tất nhiên với tính xởi lởi, hiếu khách, bạn đãi anh món cá lóc nướng trui. Khi bày biện món ăn, bạn hồ hởi: "Vợ tui mà làm món này ngon hết phảng". Vừa nghe tới đó, anh chàng thấy lùng bùng lỗ tai, tự ái dồn dập, thầm nghĩ: "Đãi miếng ăn mà nói như móc họng người ta. Lâu nay, tình bạn như bát nước đầy, nào có ai phản, ai phé chi đâu mà nói thế?".
Món cá lóc nướng trui. Ảnh minh hoạ: Internet
Thật ra, ở miền Nam có thành ngữ như "hết phảng", chẳng hạn, với từ "làm" đứng trước, là hàm nghĩa nhằm người đó tận tình, làm hết mình với công việc, không làm ầu ơ ví dầu, làm lấy lệ. Nói thật, tôi chưa thấy cái chữ nào rắc rối như "phảng". Nó viết dấu hỏi hoặc dấu ngã? Việt ngữ chánh tả tự vị (Lê Ngọc Trụ), Tự điển dấu hỏi, dấu ngã (Đào Văn Hội) viết dấu "ngã", Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), Từ điển từ ngữ Nam bộ (Huỳnh Công Tín) viết dấu "hỏi"… Tóm lại, dù viết "hỏi" hoặc "ngã" thì ta cũng biết phảng (có nhiều loại như cổ cò, nắp, giò nai) là dụng cụ mà người miền Nam sáng chế ra để chém tận gốc cỏ năn, cỏ lác…
Nói "phảng" dụng cụ của người nông dân miền Nam là chính xác, đơn giản từ điển ngoài Bắc như Việt Nam tự điển (1931) của Hội Khai trí Tiến Đức không ghi nhận; và nó chỉ mới có sau này, bằng chứng không tìm thấy "phảng" trong từ điển của Huình Tịnh Paulus Của (1895). Thêm điều lạ nữa, bản thân tôi khảo sát trong ca dao, tục ngữ cũng không thấy nhắc nhiều đến "phảng", nhưng trong các điệu lý lại có "Lý cái phảng": "Chú kia vác phảng, cái mà đi đâu? (2 lần)/ Phảng mua, phảng mướn ơ ơ phảng nhà tôi/ Cái mà của tôi bớ nàng ôi/ Bớ nàng ôi! Có chồng chưa? Giúp tình thương"…
Nếu không dùng "hết phảng", tất nhiên tùy ngữ cảnh, có thể dùng từ gì tương đương? Có thể tìm thấy câu trả lời trong ca dao: "Tôi ở Đồng Tháp, tui nghèo quá xá/ Tôi chèo vô Rạch Giá, buôn bán mấy giạ khoai lang". "Quá xá" có thể hiểu là quá mức độ, vượt mức. Bây giờ ít nghe ai nói "hết phảng", tùy theo trường hợp, ta nghe nói đến: Hết xẩy/ hết xẩy con bà Bảy, tới bến, hết cỡ thợ mộc, mút mùa Lệ Thủy, mút chỉ/ mút chỉ cà tha, làm tẹt ga…
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất