07/09/2025 07:48 GMT+7 | Văn hoá
Từ năm 1895, ông Huình Tịnh Paulus Của có ghi nhận "tiếng mới" thuở ấy vừa du nhập vào lời ăn tiếng nói: "Làm lửa" - nay chẳng hề thấy ai sử dụng, tự nó đã đào thải, cụm từ này được giải thích: "Lãnh việc chụm lửa dưới tàu khói". Tương tự,"Một lần nhúm bếp lửa một lần khó", mấy ai còn nhớ đến nghĩa bóng: "Nhen nhúm, gây dựng cho ra sự nghiệp, cho thành đôi bạn thì là rất khó".
Xem chuyên đề Chữ và nghĩa TẠI ĐÂY
Có thể nói, đây là 1 trong những câu tục ngữ phản ánh rõ nét văn hóa Việt Nam, bởi xuất hiện từ "bếp lửa". Gắn kết tình chồng nghĩa vợ, trước hết thể hiện qua ăn nằm chung giường, ăn ở chung nhà và tất nhiên cùng chung cả cái bếp "cơm ngày 3 bữa, đỏ lửa 3 lần". Ông bà ta bảo: "Ðàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm". Tổ ấm này còn thể hiện qua bếp lửa mỗi nhà, nơi ấy, dành cho người mẹ, người vợ. "Vắng đàn bà quạnh bếp", vì thế, "Xem trong bếp, biết nết đàn bà" là vậy.
Không chỉ "nhúm bếp lửa" là ngụ ý chuyện se duyên vợ chồng, lửa còn đèo thêm nghĩa khác, thí dụ, có 2 chị em bạn gái trò chuyện: "Mấy lửa rồi bồ tèo?". Nghe hỏi, cô này đáp: "Hai rồi đó". Cô kia ngạc nhiên: "Vậy mà vóc dáng vẫn còn gọn gàng, săn chắc. Ngộ quá ta". Ngạc nhiên là phải, vì cô ấy đã 2 lần… sinh nở. Có phải từ lửa được sử dụng trong ngữ cảnh này là do ngày xưa phụ nữ có lệ sau khi sinh phải nằm lửa/ nằm cữ/ ở cữ - tức nằm trên lửa than cho ấm?
Ảnh minh hoạ: Internet
Không những thế, chẳng thấy ai dùng từ "lửa trơi" nữa. Dấu vết ấy, còn lưu lại trong "Văn tế trận vong tướng sĩ" của Nguyễn Văn Thành (1758 - 1817): "Hồn tráng sĩ biết bao miền minh mạc, mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương/ Mặt chinh phu khôn vẽ nét gian nan, lấp lóe lửa trơi soi chừng cổ độ".
Hầu hết các bản trên mạng đều chép thành "lửa trời", không đúng với văn bản đã ghi nhận, chẳng hạn "Văn đàn bảo giám" (1934). Nhà nghiên cứu Long Điền giải thích là dịch từ tiếng "lân hỏa": "Theo mê tín thường tin rằng vong hồn người như cái ma trơi, nghĩa rộng, "lửa trơi" là chỉ vong hồn". Sở dĩ dùng từ "trơi" bởi nghĩa của nó là "không thiệt" - theo "Đại Nam quấc âm tự vị" (1895).
***
Một khi đôi son trẻ đã "nhúm bếp" đâu vào đó, còn gì hạnh phúc hơn, nói cách khác chính là "Có đôi có đũa". Đây cũng là câu tục ngữ nói về tình cảm gắn bó vợ chồng: "Chàng ơi, cho thiếp theo cùng/ Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam", là dù có lên bờ xuống ruộng, có trần ai khoai củ thì họ cũng dính nhau như sam, như bếp có lửa, chứ ngày đêm tắt ngúm thì cầm bằng "xong phim". Vợ chồng "như đũa có đôi", chứ chỉ mỗi 1 chiếc thì chẳng nên trò trống gì.
Từ đó, ta càng rõ hơn nghĩa của câu cửa miệng mà "Từ điển Việt-Bồ-La" (1651) đã ghi nhận: "Bẻ tiền bẻ đũa". Là người xưa nói đến "chia uyên rẽ thúy", "tan đàn xẻ nghé" trong hôn nhân. Bẻ đũa thì dễ hiểu rồi, còn "bẻ tiền" là do thời xưa tiền đúc bằng gang, bằng kẽm nên sử dụng từ bẻ là vậy.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất