Chữ và nghĩa: Ai về nhắn với nậu nguồn

10/08/2025 21:45 GMT+7 | Văn hoá

"Ai về nhắn với nậu nguồn

Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên"

Xem chuyên đề Chữ và nghĩa TẠI ĐÂY

Từ "nậu" có từ bao giờ?

Xin thưa, có từ năm 1762. Căn cứ vào "Đại Nam thực lục" (tiền biên), quyển IX, ta biết năm đó chúa Nguyễn Phúc Chu cho định lại đơn vị hành chánh từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận, ngoài phủ huyện: "Hễ những nơi gần núi ven biển thì lập làm thuộc, phủ". Và: "Mỗi thuộc đều lấy những thôn, phường, nậu, man lẻ tẻ họp lại, nhưng chưa có lệ đặt chức dịch".

Nậu nghĩa là làm cỏ ruộng, tục gọi đám đông người là nậu, ý là hợp nhiều người để làm ruộng; man nghĩa là cỏ lan man ra, phàm những chỗ nhà ở liền nhau thì gọi là man.

Chữ và nghĩa: Ai về nhắn với nậu nguồn - Ảnh 1.

Từ thông tin nêu trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Tú đặt câu hỏi: "Người làm ruộng ở vùng Nam Trung bộ thường sử dụng một dụng cụ gọi là "nạo" để làm cỏ lúa. "Nậu" do "nạo" mà ra chăng? (tạp chí "Xưa và nay", số 42B, tháng 8/1997). Đến nay, đơn vị hành chánh "nậu" hoàn toàn biến mất.

Dù vậy, "nậu" vẫn tồn tại trong lời ăn tiếng nói, chẳng hạn, "Nậu nại tôi dại như trâu/ Trưa tròn con bóng vác đầu ra phơi". Xin giải thích, nậu nại: Những người làm muối; nậu rỗi: Nhóm người buôn cá… Tức chỉ ngôi thứ 3, số nhiều, dùng thay cho bọn, chúng nó, tụi, phe nhóm. Đầu nậu: Người đứng đầu một nhóm người; hoặc người đứng ra bỏ vốn để thầu một việc gì đó.

Có một điều hết sức lý thú, tùy theo ngữ cảnh, "nậu" còn xuất hiện với vai trò khác nhau. Có thể người vùng miền khác hiểu cả 3 ngôi: "Mất chồng như nậu (tôi/anh/nó) mất trâu/ Chạy lên chạy xuống cái đầu chơm bơm"; hoặc hiểu chỉ ngôi thứ 3: "Tiếc công anh đào ao thả cá/ Năm bảy tháng trời nậu lạ (họ) tới câu".

Trong tiếng Việt, có cách nói tắt như anh ấy = ảnh, ông ấy = ổng… Vậy dứt khoát đứt đuôi con nòng nọc, nậu ấy = nẩu. Thế nhưng, hầu hết người ta đều sử dụng "nẫu", có phải do cư dân miền Trung không phân biệt được 2 thanh hỏi và ngã, hoặc do phát âm bặng giọng? Ở đây, chúng tôi dùng từ "nẩu" theo cách ghi nhận của "Đại từ điển tiếng Việt" (NXB Văn hóa - Thông tin, 1999).

"Nẩu" cũng có cách xưng hô đa nghĩa, không thua gì từ "nậu". Hãy nghe mẩu đối thoại: "Thiên hạ cứ xì xào miết chuyện đó, nẩu (tôi) rầu ghê". Người kia an ủi: "Bỏ qua đi, hơi đâu nghe nẩu (họ) bàn tán". Người này hỏi lại: "Nẩu (anh) nói vậy là sao?".

Tần số "nẩu" xuất hiện khá nhiều trong ca dao Nam Trung bộ: "Tỉnh dài, huyện rộng, xã to/ Nẩu lo phần nẩu, mình lo phận mình"; "Thương chi cho uổng tấm tình/ Nẩu về xứ nẩu bỏ mình bơ vơ"…

Có lẽ ca khúc "đặc nẩu", được nhiều người yêu thích nhất vẫn là "Trách phận" của nhạc sĩ Phan Bá Chức - Nguyễn Hữu Ninh, còn được gọi là "Nẩu ca", viết theo làn điệu dân ca: "Thân nè… trách thân nè/ Thân sao chớ lận đận/ Mình nè… trách mình nè/ Số phận chứ sao hẩm hiu/ Bởi thân tui, tui cực khổ tui eo nghèo/ Nên vợ tui nó không ở nữa, nó theo cái nẫu rầu…".

Chỉ mới vừa há miệng hát lên đã thấy rầu rĩ, bực bội, buồn bã, héo hon lòng dạ. Vì vợ mình "nó theo nẩu rồi", không buồn nẫu ruột, nẫu gan mới là lạ. Thôi cho qua đi Tám. Hãy cứ tin,"Thuốc ngon chợ huyện, giấy quyến Sa Huỳnh/ Nẩu xa mược nẩu, đôi lứa mình đừng có xa".

Lê Minh Quốc

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm