03/11/2025 20:23 GMT+7 | Giải trí
Tuần qua, top 10 Billboard 200 chỉ có duy nhất 1 album mới và rất đáng chú ý là No.4 Deadbeat (Bằng phẳng). Đây là album đã được mong chờ từ lâu của Tame Impala - dự án âm nhạc của nghệ sĩ đa nhạc cụ người Australia Kevin Parker.
Theo Luminate, tại Mỹ trong tuần kết thúc ngày 23/10, Deadbeat ra mắt với 70.000 đơn vị album tương đương.
Khen chê trái chiều
Trong số đó, doanh số album thuần túy chiếm 37.000 (album ra mắt ở No.2 trên BXH Album có doanh số hàng đầu), còn từ stream là 33.000 (tương đương 41,72 triệu lượt phát chính thức theo yêu cầu của các ca khúc trong album; album ra mắt ở No.7 trên BXH Album được stream hàng đầu).
Doanh số tuần đầu tiên của Deadbeat được củng cố nhờ có sẵn 7 phiên bản đĩa than và 5 hộp CD cao cấp (bao gồm CD và sản phẩm có thương hiệu), cùng với CD, băng cát-xét và album tải xuống kỹ thuật số tiêu chuẩn.
Tính chung trên Billboard 200, Deadbeat là dự án thứ 3 lọt vào top 5 (và top 10) của Tame Impala, sau The Slow Rush năm 2020 (đạt đỉnh ở No.3) và Currents năm 2015 (No.4).

Kevin Parker và con gái trên bìa album “Deadbeat” của Tame Impala
Đây là album phòng thu thứ 5 của Tame Impala. Album phát hành thông qua Columbia Records, vào ngày 17/10/2025 - tức 5 năm kể từ album trước The Slow Rush.
Album gồm 12 ca khúc, đều do Kevin Parker sáng tác, với một số ca khúc sáng tác cùng Sarah Aarons.
Mở màn cho album là bộ ba đĩa đơn End of Summer, Loser và Dracula. Cả 3 đều lọt vào nhiều BXH Billboard. Đặc biệt, Dracula - ca khúc mà Parker miêu tả là một trong những khoảnh khắc định hình kỷ nguyên Deadbeat - đạt tới No.33 trên Billboard Hot 100.
Khán giả đã mong chờ Deadbeat từ lâu bởi trong một cuộc phỏng vấn đầu năm 2020, khi quảng bá cho The Slow Rush, Parker đã khẳng định rằng album tiếp theo sẽ không mất nhiều thời gian như vậy, nói rằng anh đang có "một nguồn ý tưởng dồi dào".
Sau đó, dù nhiều lần khẳng định điều tương tự, nhưng trên thực tế, Deadbeat cũng mất 5 năm thai nghén - bằng với thời gian của The Slow Rush. Album được miêu tả là "lấy cảm hứng sâu sắc từ âm nhạc và những bữa tiệc nhạc điện tử ở Tây Australia".
Các album trước đây của Tame Impala luôn được khen ngợi rộng khắp. Tuy nhiên, Deadbeat lại nhận đánh giá khen chê rất khác nhau từ cả phía giới phê bình lẫn khán giả. Điểm Metacritic cho album, dựa trên 12 nguồn uy tín, là 66/100, tức "nhìn chung là tích cực".
Phía khen ngợi đánh giá cao quá trình sản xuất và thử nghiệm của album, đặc biệt là những giai điệu nhịp 4/4 dồn dập và bốc lửa. Phần ca từ cũng được khen là có những lúc "ngọt ngào đáng ghen tị" và "trung thực đến đau lòng".
Phía chê thì cho rằng album "cũ kĩ" và "mệt mỏi", không có trọng tâm nghệ thuật, thiếu độc đáo và tinh tế khi so với những album trước của Tame Impala. Nhạc dance của Parker bị cho nửa vời, chưa đặc sắc như các nghệ sĩ Washed Out và S.G. Lewis đã làm được gần đây.
Tờ Clash thậm chí cho rằng album này dựa vào những người hâm mộ trung thành, những người tin tưởng vô điều kiện vào Parker bất chấp "cuộc khủng hoảng bản sắc" khiến anh bối rối không biết nên phát hành gì dưới nghệ danh Tame Impala.
Phía bên kia của dao động con lắc
"Tôi thực sự bị cuốn hút bởi những âm thanh khá... đơn giản, giản lược và đôi khi bị bóp méo. Tôi từng có một ảo tưởng kiểu "nếu nghe dở thì chuẩn rồi đấy" - Tame Impala.
Tame Impala là dự án âm nhạc psychedelic của ca sĩ kiêm nghệ sĩ chơi nhiều nhạc cụ người Australia Kevin Parker.
Trong phòng thu, Parker sáng tác, thu âm, biểu diễn và sản xuất toàn bộ âm nhạc của dự án. Khi đi lưu diễn, Tame Impala bao gồm Parker (hát chính, guitar, synthesizer), Dominic Simper (guitar, synthesizer), Jay Watson (synthesiser, hát, guitar), Cam Avery (guitar bass, hát, synthesizer) và Julien Barbagallo (trống, hát).
Tame Impala có mối quan hệ chặt chẽ với ban nhạc đồng hương Pond khi có chung nhiều thành viên và cộng tác viên. Hiện, nhóm đang ký hợp đồng với Interscope Records tại Mỹ và Fiction Records tại Vương quốc Anh.
Parker bắt đầu dự án Tame Impala tại Perth (Australia) vào năm 2007. Sau một loạt đĩa đơn và EP, album phòng thu đầu tay của Tame Impala, Innerspeaker, được phát hành vào năm 2010. Nó đã được chứng nhận vàng tại Australia và được các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt.
Album tiếp theo của Parker năm 2012, Lonerism, cũng được hoan nghênh, đạt chứng nhận bạch kim tại Australia và nhận được đề cử Grammy cho Album nhạc Alternative hay nhất.
Album thứ 3, Currents, được phát hành năm 2015. Cũng giống như album trước, nó đã giành được giải của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Australia (ARIA) cho Album Rock hay nhất và Album của năm.
Album phòng thu thứ tư, The Slow Rush, được phát hành vào năm 2020, tiếp tục được các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt. Tại giải ARIA năm 2020, Tame Impala đã giành được 5 giải thưởng.

Kevin Parker (giữa) biểu diễn với các thành viên ban nhạc sống Tame Impala tại Flow Festival 2019
Các album của Tame Impala đều phản ánh sự phát triển của Parker cả ở tư cách nghệ sĩ lẫn con người. Những người hâm mộ kì cựu đã đi cùng anh từ thời anh là chàng trai đôi mươi lạc lõng, ẩn dật, nói chuyện trước máy ghi âm và đam mê psychedelic.
Trong quãng thời gian giữa The Slow Rush và Deadbeat, Parker đã bước qua một giai đoạn hoàn toàn khác. Các con anh - con gái Peach, sinh năm 2021 và xuất hiện trong ảnh bìa album, cùng con trai, biệt danh Rose, sinh giữa năm 2025 - đã mở rộng tầm nhìn của anh.
Cùng với đó là rất nhiều dự án đột phá ngoài Tame Impala. Parker viết nhạc cho các phim lớn Dungeons & Dragons, Barbie và Minions, hợp tác với Justice và Thundercat, tạo ra một ca khúc sôi động cho đội bóng bầu dục Australia Fremantle, bị gãy xương hông khi chạy bán marathon, chiến thắng giải Grammy, đồng sở hữu công ty sản xuất nhạc cụ Telepathic Instruments và phát hành bộ tổng hợp Orchid, làm DJ trực tiếp,…
Với cuộc sống bận rộn như vậy, không ngạc nhiên khi Parker tìm kiếm sự đơn giản khi xây dựng Deadbeat.
"Tôi thực sự bị cuốn hút bởi những âm thanh khá... đơn giản, giản lược và đôi khi bị bóp méo" - anh nói - "Tôi từng có một ảo tưởng kiểu "nếu nghe dở thì chuẩn rồi đấy".
"Tôi luôn bị ám ảnh bởi những ca khúc và âm thanh pop đầy màu sắc. Nhưng đồng thời, tôi cũng thích những thứ đối lập, sự dao động của con lắc theo hướng ngược lại" - anh nói thêm.
Phần lớn Deadbeat được tạo ra trong phòng thu của Parker ở Tây Úc. Đây thật ra là nhà cũ của anh, với các bức tường bị đập bỏ.
Là một "mọt nhạc cụ và con chuột phòng thu" như Parker tự nhận, phòng thu của anh tràn ngập nhạc cụ, thiết bị và những thứ tạo ra âm thanh. Anh thậm chí chưa bao giờ bỏ hay cho đi bất cứ gì kể từ khi thực hiện EP đầu tiên vào năm 2008.
"Bạn phải rất nghiêm khắc nếu có nhiều thứ trong tay" - anh suy tư - "Một trong những điều tuyệt vời khi sáng tác nhạc thuở mới bắt đầu là bạn chẳng có nhiều thứ".
Thế nên, khi đã "có mọi thứ trong tầm tay và có thể sở hữu cả một thư viện đồ âm thanh", anh lại có cảm giác: "Điều đó có thể làm mất đi sự giản đơn tuyệt đẹp trong âm nhạc. Vậy nên, tôi chỉ muốn tìm lại cảm giác đó".
Nhưng làm thế nào để cân bằng giữa con người mê nhạc cụ với thứ âm nhạc giản dị, mộc mạc mà anh muốn kết nối lại? Đó chính là lúc cộng sự Sarah Aarons xuất hiện.
Parker nói rằng Aarons là người rất quan trọng trong quá trình sản xuất của anh, bởi vì cô giúp anh tập trung lại khi anh bắt đầu lạc lối. "Giống như cô biết điều gì sẽ hiệu quả, điều gì thì không"- theo Parker.
"Tôi luôn phân vân về mọi thứ. Tôi luôn do dự, suy đoán và nghi ngờ những gì mình đang làm. Cô ấy có cách rất tuyệt vời để hỏi tôi muốn gì. Với tôi, cô ấy gần như là một nhà sản xuất vậy" - anh tri ân người cộng sự - "Giống như Tame Impala ở chế độ hiệu quả, với hiệu suất được đẩy lên cao".
Mặc dù những nét chấm phá psychedelic vẫn còn đó, trong Deadbeat, Parker khám phá thế giới "mới mẻ và đáng sợ" của những bản nhạc sôi động trong hộp đêm, ảnh hưởng RnB mạnh mẽ và nu-disco sôi động.
Cốt lõi của một album Tame Impala vẫn còn đó, chỉ là được mở rộng ra, với đam mê khám phá rất nguyên bản.
Top 10 Album trên BXH Billboard 200 tuần qua
1. The Life of a Showgirl - Taylor Swift
2. KPop Demon Hunters - nhạc phim
3. I'm the Problem - Morgan Wallen
4. Deadbeat - Tame Impala
5. Man's Best Friend - Sabrina Carpenter
6. Am I the Drama? - Cardi B
7. The Art of Loving - Olivia Dean
8. SOS - SZA
9. One Thing at a Time - Morgan Wallen
10. You'll be Alright, Kid - Alex Warren
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất