11/12/2025 13:11 GMT+7 | Văn hoá
Với Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp vào ngày 9/12/2025, đến nay Việt Nam có 17 Di sản Văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh.
17 Di sản Văn hóa phi vật thể gồm: Nhã nhạc Cung đình Huế; Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ Bắc Ninh; Ca Trù; Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc; Hát Xoan Phú Thọ; Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ; Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca Ví, Dặm ở Nghệ Tĩnh; Nghi lễ và trò chơi Kéo co; Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt; Nghệ thuật Bài Chòi ở Trung Bộ; Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái; Nghệ thuật Xòe Thái; Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm; Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam và Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.

1. Nhã nhạc cung đình Huế (UNESCO ghi danh năm 2003)
Khác với ca trù phát sinh từ dân gian rồi vào cung đình, Nhã nhạc có quá trình hình thành, lan tỏa trái ngược và được UNESCO đánh giá là loại hình âm nhạc duy nhất đạt tới tầm vóc quốc gia trong các thể loại nhạc cổ truyền.
Nhã nhạc cung đình xuất hiện vào những năm đầu của triều Lý (1010-1225). Tuy nhiên, phải đến thời Nguyễn (1802-1945), loại hình âm nhạc này mới thực sự phát triển rực rỡ. Âm nhạc của Nhã nhạc cung đình tao nhã, thiêng liêng thường dùng trình diễn trong các dịp đại lễ trang nghiêm của triều đình, cúng tế thần linh và không thể thiếu dưới triều đại bấy giờ. Từ đây, Nhã nhạc gắn liền với cung đình Huế và phát triển theo mô thức quy phạm đúng chuẩn, bài bản với hàng trăm nhạc chương.

Trình bày Nhã nhạc Cung đình Huế tại sự kiện. Ảnh: Nhật Anh/ TTXVN
Đặc trưng của Nhạc cung đình là tính bao trùm đối với tất cả các bộ môn âm nhạc khác, từ Lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ lớn nhỏ của cung đình, trong các chùa miếu), nhạc thính phòng, sân khấu, kể cả các vũ điệu, mà mỗi bộ môn đều có những nghệ sĩ chuyên sáng tạo và biểu diễn. Các quy định về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội dung bài bản... của Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ qua các định chế thẩm mỹ rất cao, có khả năng phản ánh tư tưởng, quan niệm triết lý của chế độ quân chủ đương thời.
Ngày 7/11/2003, nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (UNESCO ghi danh năm 2005)
Cồng chiêng xuất hiện trên mảnh đất Tây Nguyên từ bao giờ không ai rõ. Nó như mạch nước ngầm thấm đẫm hơi thở cuộc sống. Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, cồng chiêng có từ thời cổ đại, bắt nguồn từ nền văn minh Đông Sơn có cách đây ít nhất 3.500-4.000 năm, với hai nhạc cụ điển hình là trống đồng và cồng chiêng. Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân Tây Nguyên: từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả cho đến lễ cúng máng nước, lễ mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà Rông mới…

Cồng chiêng Tây Nguyên hiện không chỉ là nét văn hóa độc đáo mà còn trở thành sản phẩm du lịch thu hút đông đảo sự quan tâm của du khách. Ảnh tư liệu: Tuấn Anh – TTXVN
Cồng, chiêng được làm từ hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20 đến 50-60 cm, loại cực đại tới 90-120 cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi tới 18-20 chiếc. Trong một bộ chiêng, chiêng mẹ (chiêng cái) là quan trọng nhất. Cồng chiêng có thể được gõ bằng dùi hoặc đấm bằng tay. Có dân tộc còn áp dụng kỹ thuật chặn tiếng bằng tay trái hoặc tạo giai điệu trên một chiếc chiêng...
Trải qua năm tháng, cồng chiêng đã trở thành nét văn hoá đặc trưng, đầy sức quyến rũ và hấp dẫn của vùng đất Tây Nguyên. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã trở thành một điểm nhấn đặc biệt về văn hóa, du lịch, đồng thời góp phần phát triển kinh tế-xã hội của vùng đất cao nguyên đầy nắng và gió.
Ngày 25/11/2005, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã chính thức được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
3. Dân ca quan họ Bắc Ninh (UNESCO ghi danh năm 2009)
Trong kho tàng văn hóa dân gian việt Nam, Dân ca quan họ Bắc Ninh là một trong loại hình dân ca tiêu biểu nhất, phát triển đạt tới trình độ cao, hoàn chỉnh cả về phương diện âm nhạc, lời ca và hình thức trình diễn. Âm nhạc của Dân ca quan họ giàu làn điệu, mỗi làn điệu đều đạt tới trình độ ca khúc hoàn chỉnh và có phong cách riêng. Ngôn ngữ, ca từ của Dân ca quan họ mang tính độc đáo, tạo nên nét văn hóa riêng có của quê hương Quan họ, chứa đựng đủ đầy nét sinh hoạt với những tín ngưỡng, phong tục của vùng quê Bắc Ninh - Kinh Bắc.

Các liền anh, liền chị biểu diễn Dân ca Quan họ Bắc Ninh trên thuyền. Ảnh: Thái Hùng- TTXVN
Dân ca quan họ là hình thức hát giao duyên. Những liền anh trong trang phục truyền thống áo the, khăn xếp, và những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca mộc mạc, đằm thắm, theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn đầy chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của người quan họ.
Hầu hết các bài hát quan họ đều theo thể lục bát hay lục bát biến thể, cũng có bài theo thể văn xuôi. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Với số lượng bài ca và làn điệu phong phú (hơn 500 bài ca và 213 làn điệu), được thể hiện bằng nghệ thuật ca hát đặc sắc và độc đáo, dân ca quan họ có thể nói đã đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc dân tộc.
Ngày 30/9/2009, dân ca quan họ Bắc Ninh chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
4. Nghệ thuật Ca trù (UNESCO ghi danh năm 2009)
Giữa kho tàng âm nhạc dân tộc Việt Nam, ca trù nổi lên như một viên ngọc quý - tinh tế, uyên bác và thấm đẫm hồn cốt văn hóa Việt. Loại hình nghệ thuật này, còn được gọi là hát "ả đào", hát "cô đầu", rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt văn hóa ở Việt Nam từ thế kỷ 15, mang một vẻ đẹp riêng biệt mà không hình thức ca hát nào khác có thể thay thế. Đó là sự giao hòa của thơ ca, âm nhạc, ngôn từ và triết lý sống - nơi người nghe không chỉ thưởng thức tiếng hát, mà còn cảm nhận được một chiều sâu văn hóa, một không gian thẩm mỹ cổ kính và sang trọng.

Thí sinh Nguyễn Huệ Phương - câu lạc bộ ca trù Thăng Long với tiết mục "Thét nhạc" ở nội dung thi ca nương tài năng tại Liên hoan Ca trù lần thứ tư. Ảnh: Tuyết Mai - TTXVN
Hát Ca trù phải có đào hát với giọng khỏe, trầm và sang. Nhạc đệm cho người hát gồm có chiếc đàn đáy, chiếc trống con (trống khẩu), gọi là trống chầu và chiếc phách, gọi là cỗ phách do người hát điều khiển.
Trong nghệ thuật Ca trù, người đàn, người hát giữ vai trò chủ thể. Nhưng người cầm trống chầu vừa là chủ thể vừa là khách thể. Trống chầu tạo ra âm sắc "tom" khi chiếc roi gõ lên mặt trống, "chát" khi chiếc roi đập vào tang trống.
Còn cỗ phách do người hát điều khiển. Phách được làm từ một thanh tre to gần bằng chiếc bao kính. Đôi phách có phách cái và phách con, cái nặng cái nhẹ, cái tròn mà nhọn, cái chẻ làm hai; cái tròn thuộc về cái dương, cái chẻ thuộc về cái âm, âm dương phối hợp hài hòa thể hiện triết lý sống của người Việt.
Mỗi bản nhạc thường có khúc dạo đầu. Hát Ca trù cũng vậy. Trước khi giọng hát cất lên, năm khổ phách cùng trống với đàn đan quyện với nhau như tiếng tơ, tiếng trúc và tiếng châu nảy trên mâm ngọc, vừa tha thiết, trầm ấm, vừa cao sang và được tái tạo nhiều lần trong toàn bài.
Ngày 1/10/2009, Ca trù đã được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể cần Bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
5. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (UNESCO ghi danh năm 2010)
Là lễ hội lớn và đặc sắc tưởng nhớ Thánh Gióng, trong "tứ Thánh bất tử" của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Hội Gióng là lễ hội độc nhất vô nhị của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Từ những hương lễ, Hội Gióng đã trở thành hội vùng và có tầm cỡ quốc gia.
Hội Gióng ở đền Phù Đổng (xã Phù Đổng, Hà Nội- nơi Thánh Gióng sinh ra) diễn ra từ ngày 7/9 tháng tư Âm lịch. Hội Gióng ở đền Sóc (Sóc Sơn) nơi Thánh hóa, cưỡi ngựa về trời) diễn ra từ ngày 6/8 tháng Giêng Âm lịch.

Khai hội Gióng đền Sóc năm 2025 tại Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt đền Sóc (Hà Nội), nhằm tưởng nhớ, tri ân Đức Thánh Gióng - Người có công đánh thắng giặc Ân đem lại thái bình cho đất nước. Ảnh: Tuấn Anh - TTXVN
Lễ hội độc đáo này hội đủ những tiêu chí của Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được cộng đồng bảo tồn, truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, gìn giữ như một phần bản sắc của mình, chứa đựng những sáng tạo mang tầm nhân loại, thể hiện khát vọng về một cuộc sống thịnh vượng cho mỗi gia đình, về một nền hòa bình cho quốc gia và thế giới.
Ngày 16/11/2010, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc chính thức được ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
6. Nghệ thuật Hát Xoan (UNESCO ghi danh năm 2011 và năm 2017)
Hát Xoan còn có tên gọi khác là Hát Lãi Lèn, Hát Đúm, Hát Thờ, Hát Cửa đình, bắt nguồn từ hình thức hát thờ các Vua Hùng. Đây là một trong những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của nhân dân Phú Thọ.
Nghệ thuật Hát Xoan khi được trình diễn đầy đủ sẽ diễn ra theo các chặng sau: Hát Thờ (tưởng nhớ các Vua Hùng, các vị thần, những người có công với dân, với nước và tổ tiên của các dòng họ), Hát Nghi lễ (ca ngợi thiên nhiên, con người, đời sống sản xuất, sinh hoạt của cộng đồng), Hát Hội (bày tỏ khát vọng trong cuộc sống, tình yêu nam nữ với những làn điệu đậm chất trữ tình, vui nhộn, được thể hiện qua hình thức hát đối đáp giữa trai, gái làng sở tại và các đào, kép của phường Xoan…).

Học sinh Phú Thọ trải nghiệm hát Xoan cùng các nghệ nhân phường Xoan gốc tại đình Hùng Lô. Ảnh: Tạ Toàn – TTXVN
Ngày 24/11/2011, Hát Xoan được ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Và ngày 8/12/2017, Hát Xoan được UNESCO đưa ra khỏi Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp để ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
7. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (UNESCO ghi danh năm 2012)
Theo truyền thuyết, Hùng Vương là con của cha Lạc Long Quân (giống Rồng) và mẹ Âu Cơ (giống Tiên), đã có công dựng nên nhà nước Văn Lang cổ đại. Đối với cộng đồng dân cư xung quanh khu vực Đền Hùng (Phú Thọ), Hùng Vương còn là thần tổ gắn với nghề nông, dạy dân cày ruộng, cấy lúa, ban linh khí cho đất đai, nhà cửa, cây trồng, vật nuôi sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu.
Với niềm tin thành kính này, từ hàng nghìn năm qua, người Việt Nam đã sáng tạo, thực hành, vun đắp và lưu truyền Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương để thể hiện sự biết ơn với vị thủy tổ. Biểu hiện tiêu biểu nhất cho Tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương ở Phú Thọ là lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, được thực hiện vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng.

Người dân đến thăm Khu di tích lịch sử Đền Hùng (Phú Thọ). Ảnh: Quốc Khánh - TTYXVN
Ngoài vùng Đất Tổ, để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng, các địa phương trong cả nước đều có điểm thờ Hùng Vương như tại Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An, Huế, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh… Vào ngày mùng 10/3 âm lịch hàng năm, các tỉnh, thành phố đều tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm theo hướng dẫn chung của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch một cách trang trọng, thành kính, thể hiện sự tri ân, công đức tổ tiên của thế hệ con cháu với công lao dựng nước của các Vua Hùng.
Ngày 6/12/2012, tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
8. Đờn ca tài tử Nam Bộ (UNESCO ghi danh năm 2013)
Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ, phát triển từ cuối thế kỷ XIX, được sáng tạo dựa trên dòng nhạc lễ, nhã nhạc cung đình và những giai điệu ngọt ngào sâu lắng của dân ca miền Trung, dân ca miền Nam.
Đây là loại hình nghệ thuật đặc sắc của Vùng miệt vườn sông nước Nam Bộ, là sự kết hợp tinh tế, hòa quyện giữa tiếng đờn, lời ca và điệu diễn, vừa phản ánh tinh hoa văn hóa ngàn năm văn hiến của Dân tộc ta vừa mang những nét đặc trưng của người dân vùng đất phương Nam - cần cù, bình dị, chân thật, phóng khoáng, nghĩa hiệp, can trường nhưng rất đỗi nhân văn.

Giao lưu Đờn ca tài tử Nam Bộ. Ảnh: Đức Hạnh - TTXVN
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ không chỉ có vai trò đặc biệt trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Nam Bộ mà còn góp phần quan trọng làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam. Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ là một gạch nối giữa văn hóa bác học và văn hóa dân gian, giữa nghệ thuật truyền thống từ ngàn xưa với nghệ thuật của ngày mai và đã góp phần tạo nên sự giao lưu đa dạng cần thiết của văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại.
Ngày 5/12/2013, Đờn ca Tài tử Nam Bộ chính thức được ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
9. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh (UNESCO ghi danh năm 2014)
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là hai lối hát dân ca không có nhạc đệm, do cộng đồng hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáng tạo, lưu truyền trong quá trình lao động sản xuất và gắn bó chặt chẽ với đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư xứ Nghệ.

Những lời mới, ví, giặm sẽ tiếp tục được "tiếp sức" để có sức sống bền vững, hòa vào đời sống đương đại của người dân xứ Nghệ. Ảnh: Bích Huệ - TTXVN
Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ thường được thực hành trong cuộc sống: lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa… Bởi vậy, những lối hát này được gọi tên theo các hình thức lao động và sinh hoạt như: Ví phường vải, Ví phường đan, Ví phường nón, Ví phường củi, Ví trèo non, Ví đò đưa, Giặm ru, Giặm kể, Giặm khuyên…Làn điệu Ví, Giặm có ca từ bằng thơ dân gian cô đọng, súc tích, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ hát nên luôn được trao truyền, kế thừa và sáng tạo. Loại hình dân ca này cũng có nội dung phản ánh xã hội, lịch sử; thể hiện tâm tư, tình cảm, tình yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất nước, tình yêu đôi lứa; giáo huấn, triết lý trọng nghĩa, trọng tình, mang đậm tính nhân văn của người Việt Nam.
Ngày 27/11/2014, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh chính thức được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
10. Nghi lễ và trò chơi kéo co (UNESCO ghi danh năm 2015)
Nghi lễ và trò chơi kéo co được thực hành rộng rãi trong văn hóa trồng lúa ở nhiều nước Đông Á với ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu hay những tiên đoán liên quan đến sự thành công hay thất bại của nỗ lực trồng cấy.

Nghi lễ và trò chơi Kéo co Ngồi - di sản văn hoá phi vật thể quốc gia, di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại được UNESCO công nhận. Ảnh: TTXVN
Tại Việt Nam, nghi lễ và trò chơi kéo co tập trung ở vùng trung du, Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ với trung tâm là các tỉnh Phú Thọ, Bắc Ninh và thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, di sản còn được thực hành thường xuyên bởi các tộc người ở miền núi phía Bắc như người Tày, người Thái và người Giáy - vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Ngày 2/12/2015, Nghi lễ và trò chơi kéo co ở Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc và Philippines chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
11. Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt (UNESCO ghi danh năm 2016)
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là sự hỗn dung tôn giáo bản địa của người Việt và một số yếu tố của tôn giáo du nhập như Đạo giáo, Phật giáo. Từ thế kỷ XVI, việc thực hành tín ngưỡng này trở thành một sinh hoạt văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức người dân Việt Nam.
Thông qua việc kết hợp một cách nghệ thuật các yếu tố văn hóa dân gian (trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn xướng dân gian trong lên đồng và lễ hội), Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ như một "bảo tàng sống" lưu giữ lịch sử, và bản sắc văn hóa của người Việt. Qua đó, người Việt thể hiện quan niệm của mình về lịch sử, văn hóa, vai trò của giới và bản sắc tộc người. Sức mạnh và ý nghĩa của Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ chính là đáp ứng nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con người: cầu tài, cầu lộc, cầu sức khỏe.

Thực hành, biểu diễn hầu đồng tại Phủ Tiên Hương, thuộc Khu di tích lịch sử, văn hóa Phủ Dầy (Nam Định cũ). Ảnh: Công Luật - TTXVN
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt phân bố ở nhiều địa phương trong cả nước như: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh…
Ngày 1/12/2016, di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
12. Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ (UNESCO ghi danh năm 2017)
Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ Việt Nam (ở các tỉnh Quảng Trị, Huế, Khánh Hòa, Đà Nẵng…) ra đời từ nhu cầu liên lạc với nhau giữa các chòi canh trên nương rẫy.
Đây vừa là loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính sáng tạo ngẫu hứng vừa là trò chơi dân gian vui nhộn, đầy trí tuệ (kết hợp âm nhạc, thơ ca, diễn xuất, hội họa và văn học). Bài Chòi có hai hình thức chính: "Chơi Bài Chòi" và "Trình diễn Bài Chòi".

Nghệ sĩ ưu tú Trương Tuấn Hải đánh trống phục vụ trình diễn bài chòi. Ảnh: Trần Lê Lâm - TTXVN
Ngày 7/12/2017, Nghệ thuật Bài Chòi Trung bộ Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
13. Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái (UNESCO ghi danh năm 2019)
Hát Then là một loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp gồm: ca, nhạc, múa và diễn trò. Thực hành Then là nghi lễ không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Tày, Nùng, Thái, tập trung ở các tỉnh vùng Tây Bắc và Đông Bắc nước ta, phản ánh quan niệm của họ về con người, thế giới tự nhiên và vũ trụ.

Thành viên Câu lạc bộ hát Then - đàn Tính xã Lục Ngạn luyện tập biểu diễn làn điệu Then trong buổi sinh hoạt định kì. Ảnh: Đồng Thúy-TTXVN
Thực hành nghi lễ then được dùng trong những sự kiện trọng đại, chúc mừng năm mới hay trong lễ cầu an, giải hạn, cầu mùa, xuống đồng, chúc phúc… Then luôn luôn được trao truyền bằng truyền khẩu khi thực hành nghi lễ Then, thể hiện sự kế tục giữa các thế hệ. Các thầy Then đóng vai trò chính yếu trong việc chuyển giao các kỹ năng và bí quyết liên quan, một số thầy Then thực hiện khoảng 200 nghi lễ Then một năm.
Ngày 13/12/2019, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
14. Nghệ thuật Xòe Thái (UNESCO ghi danh năm 2021)
Nghệ thuật Xòe Thái là loại hình múa truyền thống đặc sắc, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của cộng đồng người Thái ở các tỉnh Tây Bắc, Việt Nam. Động tác cơ bản của Xòe là tay giơ lên cao, mở tay ra, hạ tay xuống, nắm lấy tay người bên cạnh rồi cùng bước chân nhịp nhàng, ngực hơi ưỡn, lưng ngả về phía sau. Âm nhạc cho múa Xòe cũng thể hiện quan điểm về thế giới quan, nhân sinh quan của người xưa.

Liên hoan nghệ thuật xòe Thái lần thứ 2 - năm 2025. Ảnh: Nguyễn Cường - TTXVN
Điệu xòe giúp con người quên đi những mệt nhọc của cuộc sống, các đôi trai gái có cơ hội gần nhau hơn để thể hiện tình cảm riêng tư của mình…
Tháng 12/2021, hồ sơ Nghệ thuật Xòe Thái đã được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
15. Nghệ thuật làm gốm của người Chăm (UNESCO ghi danh năm 2022)
Nghệ thuật làm gốm độc đáo của đồng bào Chăm tại làng Bàu Trúc (tỉnh Ninh Thuận cũ, nay là tỉnh Khánh Hòa) tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ XII.

Không bàn xoay, không lò nung công nghiệp – chỉ bằng đôi tay tài hoa, những người phụ nữ Bàu Trúc đã biến đất vô tri thành những tác phẩm mang hình hài và linh hồn văn hóa Chăm pa. Ảnh: Nhật Anh - TTXVN
Đến nay, Bàu Trúc được xem là một trong số rất ít những làng gốm cổ ở Đông Nam Á còn giữ lại cách sản xuất gốm thô sơ từ ngàn xưa. Thay vì sử dụng bàn xoay, người phụ nữ Chăm di chuyển giật lùi quanh khối nguyên liệu để tạo hình sản phẩm. Gốm không tráng men và được phơi khô, nung ở ngoài trời bằng củi và rơm trong 7 đến 8 giờ… Toàn bộ quy trình làm gốm của đồng bào Chăm toát lên một giá trị nghệ thuật đặc trưng. Chính nhờ vậy, dù trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát triển, gốm truyền thống của người Chăm vẫn giữ được hồn cốt tinh túy và vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm, tạo nên giá trị độc đáo. Không chỉ là nguồn thu nhập của gia đình, nghề làm gốm còn giúp bảo lưu thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa của người Chăm ở Việt Nam. Tuy nhiên, dù đã có nhiều nỗ lực bảo vệ, song nghề gốm của người Chăm đang đứng trước nguy cơ mai một.
Ngày 29/11/2022, Nghệ thuật làm gốm của người Chăm chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
16. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam (UNESCO ghi danh năm 2024)
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam diễn ra từ ngày 22 đến 27/4 âm lịch, trong miếu Bà Chúa Xứ núi Sam và khu vực bệ đá thờ Bà trên núi Sam, là các nghi thức tâm linh và diễn xướng nghệ thuật, biểu hiện niềm tin, sự biết ơn Mẹ Đất - Mẹ Xứ sở của cộng đồng các dân tộc Việt, Chăm, Khmer và Hoa. Bà Chúa Xứ là vị thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ nữ thần, luôn che chở, phù trợ cho dân chúng. Tục lễ Bà, tham gia lễ hội để thỏa mãn niềm tin và sự mong cầu về sức khỏe, bình an và tài lộc của cộng đồng Khmer, Chăm, Hoa, Việt ở Châu Đốc, An Giang cũng như cư dân vùng Tây Nam Bộ.

Đoàn các bô lão và đông đảo nhân dân cùng du khách rước tượng xuống núi về an vị tại Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam ở dưới chân núi. Ảnh: Công Mạo-TTXVN
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam là sự kế thừa, tiếp thu, tích hợp và sáng tạo của cư dân Việt trong quá trình khẩn hoang và là sự tổng hòa của tín ngưỡng thờ Mẫu của các dân tộc Việt, Chăm, Khmer và Hoa. Lễ hội nhằm tôn vinh Nữ thần bảo trợ, ban tài, lộc, sức khỏe, bình an cho người dân địa phương, đồng thời là môi trường giáo dục truyền thống đạo đức "uống nước nhớ nguồn", nhắc nhở công lao dựng nước, giữ nước của cha ông, đề cao vai trò của người phụ nữ và thể hiện sự giao thoa trong sáng tạo, thực hành văn hóa và sự hòa hợp của các dân tộc cùng chung đức tin trong cùng một phạm vi lãnh thổ.
Ngày 4/12/2024, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại.
17. Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ (UNESCO ghi danh năm 2025)
Các chủ đề của tranh thường bao gồm tranh thờ, chúc tụng, tranh lịch sử, tranh sinh hoạt, tranh phong cảnh, gắn với tập tục treo tranh vào ngày Tết Nguyên đán, Tết Trung Thu, thờ cúng tổ tiên và thờ thần. Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh ghen… cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân nghĩa, Vinh hoa, Phú quý, Lợn đàn, Gà đàn… Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhận thấy ý nghĩa văn hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết, đầy đủ về mọi sự đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìu mến và tha thiết đối với cuộc sống.

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ ở khu phố Đông Khê, phường Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ra đời cách đây khoảng 500 năm. Cộng đồng thực hành nghề đã tạo ra những bức tranh có đặc trưng riêng về chủ đề, kỹ thuật in, màu sắc và đồ họa bằng kỹ thuật in khắc gỗ.

Tranh dân gian Đông Hồ được chia thành nhiều loại: Tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt (2025). Ảnh: Hoàng Hiếu - TTXVN
Ngày 9/12/2025, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất